Sự khác biệt giữa ngũ cốc và xung

Mục lục:

Anonim

Sự khác biệt chính - Ngũ cốc so với xung

Ngũ cốc có thể được định nghĩa là những hạt nhỏ, cứng, khô được người hoặc động vật ăn. Ngũ cốc có thể được phân loại thành 5 nhóm. Đó là hạt ngũ cốc, ngũ cốc giả, ngũ cốc, ngũ cốc nguyên hạt và hạt có dầu. Trong số năm loại này, ngũ cốc và đậu được biết đến là hai loại thực phẩm chủ yếu do nhu cầu lớn về hàm lượng chất dinh dưỡng của chúng và mức tiêu thụ rộng rãi trên toàn thế giới. Các Sự khác biệt chính giữa ngũ cốc và xung là ngũ cốccỏ thuộc họ một lá mầm Poaceae. Họ được tập hợp cho ngũ cốc giàu tinh bột. Khi so sánh với các loại cây trồng khác bao gồm cả đậu, ngũ cốc là nhà cung cấp năng lượng (Calo) hàng đầu và đang được trồng với số lượng lớn hơn trên toàn thế giới. Xung còn được gọi là cây họ đậu hàng năm cho năng suất từ ​​vỏ quả, được dùng làm thức ăn cho cả con người và các loài động vật khác trên thế giới. Khi so sánh với ngũ cốc, xunggiàu protein và các axit amin thiết yếu. Tuy nhiên, trong các tình huống thông thường và thực tế, thuật ngữ ngũ cốc và đậu thường được sử dụng thay thế cho nhau. Bài viết này tìm hiểu sâu về sự khác biệt giữa ngũ cốc và ngũ cốc.

Ngũ cốc là gì

Ngũ cốc là một loại cỏ thực tế, được trồng chủ yếu để lấy các thành phần tinh bột ăn được trong ngũ cốc. Về mặt thực vật, hạt này là một loại trái cây được gọi là caryopsisvà nó chứa ba phần, chẳng hạn như nội nhũ, mầm, và cám. Nó thuộc họ Poaceae một lá mầm và được trồng với số lượng lớn hơn và cung cấp nhiều năng lượng lương thực và carbohydrate cho toàn thế giới hơn bất kỳ loại cây trồng nào khác. Ngoài ra, chúng được coi là cây trồng chủ lực. Ngũ cốc là một nguồn giàu chất dinh dưỡng đa lượng (carbohydrate, chất béo, dầu và protein) và vi chất dinh dưỡng (vitamin, khoáng chất) cũng như các chất hóa thực vật có hoạt tính sinh học (polyphenol, flavonoid, anthocyanin, carotenoid, v.v.). Trong quá trình tinh chế và đánh bóng, các chất dinh dưỡng tích tụ trong cám và mầm bị loại bỏ, và phần nội nhũ còn lại chủ yếu chứa carbohydrate. Ở một số nước đang phát triển, ngũ cốc ở dạng gạo, lúa mì, kê, hoặc ngô chiếm phần lớn dinh dưỡng hàng ngày. Ở các nước phát triển, lượng ngũ cốc ăn vào là vừa phải và đa dạng nhưng vẫn đáng kể.

Xung là gì

Xung là các loại đậu ngũ cốc là cây hàng năm cho năng suất từ ​​một đến mười hai hạt có hình thái và màu sắc khác nhau trong một quả. Xung được dùng làm thức ăn không chỉ cho con người mà còn các loài động vật khác. Tương tự như nhiều loại cây họ đậu, xung đóng một vai trò quan trọng trong luân canh cây trồng do khả năng cố định nitơ của chúng. Tùy thuộc vào giống, một xung có thể được gọi là đậu thông thường, đậu khô, đậu tây, đậu mơ, đậu pinto, đậu hải quân, v.v.. Xung được canh tác nông nghiệp, chủ yếu để làm hạt lương thực cho người, làm thức ăn gia súc, ủ chua và làm phân xanh cải tạo đất. Nhiều xung có chứa vi khuẩn cộng sinh được gọi là Rhizobia trong các nốt rễ của hệ thống rễ cây. Những vi khuẩn này có khả năng khác biệt trong việc cố định nitơ từ khí quyển. Cấu trúc này giúp các nốt sần ở rễ hoạt động như nguồn cung cấp nitơ cho các xung và làm cho chúng tương đối giàu protein thực vật. Do đó, xung là một trong những nguồn cung cấp protein thực vật lớn nhất và cũng được dùng làm phân bón cho đất.

Sự khác biệt giữa ngũ cốc và xung

Sự định nghĩa

Ngũ cốc là một loại ngũ cốc được sử dụng làm thực phẩm hoặc thức ăn sáng được chế biến từ hạt rang.

Xung là một loại cây họ đậu.

Phân loại khoa học

Ngũ cốc thuộc họ thực vật (Kingdom Plantae), họ Poales và họ Poaceae.

Xung thuộc họ thực vật Vương quốc (Kingdom Plantae), bộ Fabales, họ Fabaceae (hoặc họ Leguminosae).

Sản xuất

Ngũ cốc được nuôi cấy với số lượng lớn hơn xung. Gạo, lúa mì và ngô chiếm 89% tổng sản lượng ngũ cốc trên thế giới vào năm 2012 trong khi các giống khác như lúa mạch, lúa miến, kê, yến mạch, triticale, lúa mạch đen và kiều mạch chiếm 13% sản lượng còn lại.

Xung được trồng với số lượng ít hơn ngũ cốc. Ấn Độ là nhà sản xuất lớn nhất thế giới và là nước tiêu thụ xung nhịp lớn nhất.

Chế độ ăn kiêng

Hầu hết các nước đang phát triển tiêu thụ ngũ cốc chẳng hạn như gạo, lúa mì và kê làm chế độ ăn chủ yếu của họ.

Xung được đưa vào chế độ ăn uống chủ yếu như một bữa ăn, cà ri hoặc tiêu thụ như một món ăn nhẹ.

Hình thái học

Ngũ cốc có vỏ cứng và không ăn được và các hạt được gắn vào thân cây (Xem hình 1).

Không giống như ngũ cốc, xung ngũ cốc được tìm thấy trong vỏ quả và chúng không chứa vỏ cứng và không ăn được (Xem hình 1 và 2).

Hàm lượng carbohydrate và năng lượng

Ngũ cốc chứa nhiều carbohydrate hơn (65-78%) và năng lượng so với xung và được coi là nguồn thực phẩm cung cấp năng lượng lớn nhất trên thế giới.

Xung chứa ít carbohydrate hơn (55-65%) và năng lượng so với ngũ cốc

Đặc điểm tinh bột

Khả năng tiêu hóa của tinh bột trong ngũ cốc, cả về lượng tuyệt đối được tiêu hóa và tốc độ nó bị thủy phân, đều cao hơn so với tinh bột xung.

Khả năng tiêu hóa của tinh bột trong xung, cả về lượng tuyệt đối được tiêu hóa và tốc độ thủy phân, đều thấp hơn so với tinh bột ngũ cốc. Do đó, tiêu thụ nhiều thức ăn có tính xung huyết dẫn đến đầy hơi và các khó chịu sinh lý khác trong dạ dày.

Nội dung amylose

Hàm lượng amylose của ngũ cốc tinh bột là 20-25%, thấp hơn so với xung.

Hàm lượng amylose của cây họ đậu xung tinh bột là -30-40%, thấp hơn ngũ cốc.

Hàm lượng đạm

Ngũ cốc chứa hàm lượng protein ít hơn (5-15%) so với xung.

Xung chứa nhiều hàm lượng protein hơn (20-25%) so với ngũ cốc.

Hàm lượng axit amin Lysine

Một vài ngũ cốc thiếu axit amin thiết yếu lysine.

Xung rất giàu axit amin lysine so với ngũ cốc.

Hàm lượng axit amin methionine

Ngũ cốc giàu axit amin methionine so với xung.

Nhiều xung thiếu axit amin thiết yếu methionine.

Khả năng cố định nitơ

Ngũ cốc không có khả năng cố định nitơ.

Xung có khả năng cố định nitơ từ khí quyển.

Sử dụng

Ngũ cốc được sử dụng cho con người, chế biến các sản phẩm thực phẩm (ngũ cốc ăn sáng), khí sinh học và sản xuất nhiên liệu sinh học, và làm thức ăn gia súc cho động vật thuần hóa như bò và cừu.

Xung được sử dụng làm thức ăn cho người, làm thức ăn cho gia súc và luân canh cây trồng do chúng có khả năng cố định nitơ.

Các ví dụ

Một số ví dụ về ngũ cốc bao gồm gạo, lúa mạch, lúa mì, ngô, Ngô, kê, lúa mạch, lúa miến, kê, yến mạch, triticale, lúa mạch đen và kiều mạch.

Một số ví dụ về xung bao gồm đậu, đậu Hà Lan, đậu đũa, đậu khô như đậu pinto, đậu tây, đậu xanh, đậu Hà Lan khô, đậu lăng, đậu lupin và đậu phộng, Đậu xanh, đậu xanh, đậu xanh.

Kết luận, một số loại ngũ cốc rất giàu carbohydrate và methionine trong khi các loại đậu lại giàu protein và lysine. Do đó, sự kết hợp giữa các loại đậu với ngũ cốc tạo thành một chế độ ăn uống cân bằng, đặc biệt cho những người ăn chay.

Người giới thiệu:

Jayalath VH, de Souza RJ, Sievenpiper JL và cộng sự. (Tháng 1 năm 2014). “Ảnh hưởng của chế độ ăn kiêng đối với

Mat Chaudhry Green Gold: Xung giá trị gia tăng Quantum Media ISBN 1-61364-696-8.

Neil Palmer, (2013). Các loại đậu ngũ cốc đã thoát ra khỏi bóng tối với chương trình nghiên cứu lớn. Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2013.

Postgate, J (1998). Cố định Nitơ, Tái bản lần thứ 3. Nhà xuất bản Đại học Cambridge, Cambridge Vương quốc Anh

Pulses: Thực phẩm hoàn hảo do Julie Garden-Robinson, Ph.D., L.R.D., Chuyên gia về Thực phẩm và Dinh dưỡng, Dịch vụ Mở rộng Đại học Bang North Dakota phát triển cho Hiệp hội Những người trồng Pulse phía Bắc. Cập nhật tháng 6 năm 2012

Hình ảnh lịch sự:

“Peas in pods - Studio” của Bill Ebbesen - Tác phẩm riêng. (CC BY-SA 3.0) qua Commons

Sự khác biệt giữa ngũ cốc và xung