Chế độ nô lệ đã bị xóa bỏ như thế nào

Mục lục:

Anonim

Bối cảnh của chế độ nô lệ và bãi bỏ

Trước khi thảo luận về việc chế độ nô lệ bị bãi bỏ như thế nào, chúng ta hãy tìm hiểu một số sự kiện quan trọng về chế độ nô lệ. Chế độ nô lệ lần đầu tiên du nhập vào châu Mỹ bởi người Hà Lan đưa những người châu Phi bị bắt đến thuộc địa Bắc Mỹ Jamestown, Virginia, vào năm 1619. Trong suốt hai thế kỷ tiếp theo, nô lệ được sử dụng trên khắp các thuộc địa của Mỹ, chủ yếu trong các đồn điền trồng thuốc lá, gạo và chàm. Vì vậy, chế độ nô lệ đã giúp xây dựng nền tảng của quốc gia Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sau Cách mạng Mỹ, nhiều người miền Bắc (nền kinh tế miền Bắc không phụ thuộc vào đồn điền hay chế độ nô lệ), bắt đầu nhận ra rằng chế độ nô lệ là một hình thức áp bức và bất công khi họ so sánh sự áp bức của người Anh với sự áp bức của nô lệ..

Phong trào bãi bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ đã phát triển mạnh mẽ ở miền Bắc Hoa Kỳ từ những năm 1980 đến những năm 1860. Phong trào này được dẫn đầu bởi những người da đen tự do như Frederick Douglass, Harriet Tubman và những người ủng hộ da trắng và những người theo chủ nghĩa bãi nô như William Lloyd Garrison, những người tin rằng chế độ nô lệ là tội lỗi và vô đạo đức.

Vào thời điểm này, những người da đen tự do và những người ủng hộ chống chế độ nô lệ đã bắt đầu giúp những người nô lệ chạy trốn từ Nam ra Bắc thông qua một mạng lưới các ngôi nhà an toàn được gọi là Đường sắt ngầm. Sự thành công của đường sắt ngầm cũng làm lan rộng tình cảm theo chủ nghĩa bãi nô ở miền Bắc. Tuy nhiên, nó cũng tạo ra và gia tăng căng thẳng giữa những người miền Nam ủng hộ chế độ nô lệ, những người cảm thấy rằng người miền Bắc đang cố gắng phá hủy thể chế đã duy trì họ. Chính những căng thẳng và cảm giác chống chế độ nô lệ này đã dẫn đến Nội chiến Hoa Kỳ. Chế độ nô lệ chính thức bị bãi bỏ ở Hoa Kỳ vào cuối cuộc nội chiến Hoa Kỳ.

Chế độ nô lệ đã bị xóa bỏ như thế nào

Trước cuộc nội chiến, mục tiêu chính của Abraham Lincoln và các nhà lãnh đạo khác của Đảng Cộng hòa chống chế độ nô lệ không phải là xóa bỏ chế độ nô lệ mà là ngăn chặn sự lan rộng của nó sang các bang và vùng lãnh thổ mới ở phương tây. Hầu hết các nhà lãnh đạo miền Nam không chấp nhận quan điểm này vì họ cảm thấy rằng các quốc gia tự do sẽ trở thành mối đe dọa cho quyền lực của họ. Năm 1860, Abraham Lincoln được bầu làm tổng thống và bảy bang miền Nam tách khỏi Liên bang và thành lập Liên minh các bang Hoa Kỳ. Cuộc nội chiến Hoa Kỳ bắt đầu vào năm 1861 như một phản ứng đối với điều này. Lúc đầu, mục đích chính của cuộc chiến là để bảo tồn Hoa Kỳ như một quốc gia.

Năm 1862, luật nô lệ chạy trốn đã bị Quốc hội bãi bỏ. Tiếp theo là việc cấm chế độ nô lệ ở các vùng lãnh thổ của Hoa Kỳ. Năm 1863, ngày 1 tháng 1NS, Tổng thống Lincoln đã ban hành một tuyên bố giải phóng cho tất cả các bang vẫn còn trong cuộc nổi loạn. Tuy nhiên, tuyên ngôn này đã không giải phóng tất cả nô lệ ở Hoa Kỳ; nó miễn trừ cho các quốc gia nô lệ ở biên giới của Liên minh và một phần của ba quốc gia Liên minh thuộc quân đội Liên minh. Điều này cũng cho phép Liên minh thu hút được 180.000 lính da đen tình nguyện chiến đấu.

Lần đầu tiên đọc Tuyên ngôn Giải phóng của Tổng thống Lincoln

Nội chiến kết thúc vào năm 1865. Tu chính án thứ 13, được thông qua vào năm 1865, chính thức bãi bỏ chế độ nô lệ. Tuy nhiên, tình trạng của người da đen được tự do ở miền Nam vẫn bấp bênh, và điều kiện của người da đen không được cải thiện đáng kể. Phải mất nhiều năm và nỗ lực hơn nữa để trao cho người da đen và người da trắng địa vị bình đẳng về mặt pháp lý.

Hình ảnh lịch sự:

“Tuyên ngôn giải phóng” của Francis Bicknell Carpenter - Senate.gov, Public Domain) qua Commons Wikimedia

Chế độ nô lệ đã bị xóa bỏ như thế nào